Bối cảnh lịch sử Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Bản đồ nước Nam Việt của Triệu Đà

Giai đoạn trước 1945

Việt Nam giành lại được độc lập từ Trung Quốc từ năm 939.

Hòa ước Thiên Tân 1885Công ước 1887, 1895 ký kết giữa Nhà Thanh (Trung Quốc) và Thực dân Pháp công nhận 750 km vuông của tổng Tụ LongVân Nam cũng như mũi Bắc Luân (Packlung) ở Quảng Ðông là của Trung Quốc.

Bản đồ cột mốc biên giới Việt Nam-Trung Quốc theo Hiệp ước Pháp-Thanh 1887

Giai đoạn 1945 tới 1979

Kể từ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập năm 1945, biên giới Việt-Trung trải qua một giai đoạn dài tương đối yên bình. Biên giới giữa hai nước là đường biên giới Pháp-Thanh phân định năm 1887, theo đó trên tuyến biên giới có 333 cột mốc. Tuy nhiên các cột mốc biên giới này không được coi sóc cẩn thận, một số cột mốc bị thời gian làm hư hại, hoặc "bị dịch chuyển về phía nam, nhưng Việt Nam khi đó đang tập trung tâm trí vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, và Trung Quốc nói với Việt Nam biên giới không phải là vấn đề lớn, hai bên có thể để về sau giải quyết"[8]

Trong những năm 1970, tình hình thay đổi, Trung Quốc tỏ ý muốn giải quyết vấn đề biên giới theo hướng có lợi cho họ.[8] Đây cũng là cách mà Trung Quốc dùng để thăm dò thái độ của Việt Nam với Trung Quốc trong tương quan với Liên Xô. Trung Quốc cho rằng nếu những bất đồng về vấn đề biên giới trên bộ, cũng như chủ quyền các quần đảo Hoàng SaTrường Sa được giải quyết thì uy tín và vị thế của Trung Quốc trong mối liên hệ tay ba Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô sẽ tăng lên, và giảm thiểu khả năng Liên Xô sử dụng vấn đề tranh chấp lãnh thổ để lôi kéo Việt Nam và gây hiềm khích Việt Nam-Trung Quốc. Vì lẽ đó, Trung Quốc có lẽ đã bị bất ngờ khi Việt Nam từ chối đàm phán với Trung Quốc ở cấp cao để giải quyết mâu thuẫn lãnh thổ, lấy lý do "còn quá nhiều việc phải làm để giải phóng miền Nam".[9] Theo Robert Ross, lý do của hành động này có lẽ là Việt Nam muốn trì hoãn đàm phán, chờ khi vị thế của mình được nâng lên với sự ủng hộ từ Liên Xô, để làm đối trọng với Trung Quốc[10].

Tháng một năm 1974, hải quân Trung Quốc đụng độ với hải quân Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Hoàng Sa và chiếm đóng các đảo này. Tới đầu tháng 2 năm 1974, đến lượt hải quân Việt Nam Cộng hòa đổ bộ và chiếm giữ sáu đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Với sự kiện thứ nhất, các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên tiếng kêu gọi các bên liên quan tiến hành thương thảo, nhưng im lặng khi sự kiện thứ hai xảy ra, và như vậy thực tế đã ngấm ngầm ủng hộ nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa. Có thể nói như vậy tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã âm ỉ diễn ra từ năm 1974.[11]

Tới sau năm 1975, tới lượt Việt Nam muốn đặt vấn đề đàm phán lại đường biên giới được phân định theo Hiệp định Pháp-Thanh, đặt vấn đề đường biên giới lịch sử với 15 vùng lãnh thổ nhỏ tại Vân NamQuảng Tây.[8][12] Những đòi hỏi này khiến Trung Quốc bực tức, góp phần làm quan hệ hai nước trở nên xấu đi. Cho tới đầu năm 1978, đã có hàng trăm vụ xung đột vũ trang trên biên giới diễn ra, với mật độ ngày càng cao. Tuy nhiên, truyền thông Trung Quốc im lặng trước những vụ việc này, Trung Quốc tỏ ra bình tĩnh hơn Việt Nam, dường như họ không muốn xảy ra một cuộc chiến tranh truyền thông giữa hai nước, không muốn căng thẳng lên cao[13].

Trong khoảng thời gian từ tháng 4 cho tới tháng 8 năm 1978, quan hệ giữa hai nước trở nên đặc biệt xấu. Cùng với cuộc khủng hoảng Hoa kiều, vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam - Liên Xô và các vụ tranh chấp biên giới, Trung Quốc không còn giữ thái độ kiềm chế mà bắt đầu lớn tiếng đe dọa, buộc Hà Nội phải chấp thuận các yêu sách từ Trung Quốc. Trung Quốc bắt đầu tính đến khả năng dùng vũ lực để đối phó với Việt Nam. Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Việt Nam ký kết Hiệp ước Hợp tác và Hữu nghị với Liên Xô, ngay sau đó, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc bắt đầu đăng các bài tố cáo Việt Nam tiến hành xâm phạm và khiêu khích trên biên giới với Trung Quốc.[14][15]

Về phần mình, Việt Nam cũng có những lý do chính đáng để tỏ ra không hài lòng với Trung Quốc. Việt Nam cho biết, phía Trung Quốc thực hiện chính sách dịch chuyển các cột mốc biên giới tại rất nhiều điểm vào sâu trong nội địa Việt Nam, cũng như sử dụng lực lượng vũ trang hộ tống dân cư Trung Quốc lấn sang đất Việt Nam.[16][17] Một trong những địa điểm tranh chấp quan trọng nhất là 300m đường sắt vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam từ điểm nối đường ray cho tới trạm kiểm soát biên giới gần Hữu Nghị Quan, do công nhân Trung Quốc bảo dưỡng với sự chấp thuận của Việt Nam từ năm 1955.[16] Phía Trung Quốc tố cáo Việt Nam lấn chiếm nơi này, còn Việt Nam tố cáo Trung Quốc lợi dụng lòng tin của Việt Nam đặt điểm nối đường ray vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam để lấn chiếm đất. Việt Nam cũng tố cáo Trung Quốc phá hủy cột mốc số 18 và dịch chuyển cột km số 0 vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 100m.[18]

Giai đoạn từ sau 1979

Sau chiến tranh biên giới 1979, mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng quân Trung Quốc vẫn chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ biên giới có tranh chấp mà trước đó Việt Nam kiểm soát, trong đó có 300 m đường xe lửa giữa Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới Việt Nam.[19]. Trung Quốc cũng chiếm một số điểm cao chiến lược dọc biên giới Việt Nam, nhằm làm bàn đạp cho các cuộc tấn công quân sự sau này.[20] Xung đột vũ trang vẫn liên tục xảy ra sau đó trên tuyến biên giới giữa hai nước trong suốt thập niên 1980.

Vùng quanh Bình Liêu nơi Trung Quốc tiến hành lấn chiếm

Kể từ nửa sau năm 1988, tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước lắng xuống, rồi tới cuối năm các hoạt động buôn bán qua lại biên giới bắt đầu trở lại. Hai phía bắt đầu nối lại các hoạt động đàm phán về bình thường hóa quan hệ và giải quyết vấn đề biên giới. Quan hệ giữa hai nước đặc trưng bởi hình ảnh hữu hảo của các chuyến viếng thăm cao cấp qua lại giữa hai nước, diễn ra đồng thời với sự căng thẳng liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là trên Biển Đông,[21] cả hai bên tiếp tục tuyên bố khẳng định chủ quyền trên các vùng có tranh chấp.

Trên bộ, sự kiện nghiêm trọng nhất là việc tháng 5 năm 1997 Trung Quốc cho xây dựng một bờ kè kéo dài một cây số tại khúc sông chảy qua Đồng Mô, thuộc huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh đối diện với khu Phòng Thành, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Theo Việt Nam, việc làm này vi phạm Thỏa ước tạm thời giữa hai phía không thay đổi nguyên trạng hiện trường, gây hại đến hệ thống thủy lợi tưới tiêu, cũng như làm xói lở đất bên bờ sông thuộc Việt Nam. Để đáp lại, tới tháng 9 cùng năm, Việt Nam cho xây một bờ kè đá để chống xói lở. Tới tháng 11, Trung Quốc cho lấp khúc sông biên giới, và như vậy đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam hai hecta.[22]. Điều đáng nói là các hoạt động trên diễn ra tại khu vực mà theo phía Việt Nam là biên giới xác định rõ ràng, tức trước dó không có tranh chấp. Năm 2000, tại vòng đàm phán thứ 11 về biên giới vụ việc này được đặt ra, nhưng không có thông tin cho biết liệu hai bên có đi đến giải pháp nào cho khu vực này.[23]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam - Trung Quốc http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/09/1309... http://books.google.com/books?id=9vhJNyQVnmsC&prin... http://books.google.com/books?id=JTi9o9VWqkoC&prin... http://books.google.com/books?id=OjJ8kdqhON8C&prin... http://books.google.com/books?id=eMQQHutYjzYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=kzBWq44_VSUC&prin... http://books.google.com/books?id=r1wE8uYS9cEC&prin... http://books.google.com/books?id=s381tSk29yEC&prin... http://books.google.com/books?id=uIsi4vdeFnUC&prin... http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/ai-n...